NHỮNG CON ĐƯỜNG PHẬT GIÁO
Vào lúc gần nhập diệt, khi còn ở kinh thành Vệ Xá, Đức Phật đã nói với Ananda: “Hãy tự mình là ngọn đèn soi sáng cho chính mình! Hãy nương tựa nơi chính mình! Dùng Chánh Pháp làm ngọn đèn! Dùng Chánh Pháp làm chỗ nương tựa! Đừng tìm đến một nguồn ánh sáng hay chỗ nương tựa nào khác”. Và kể từ đó, tùy tâm nhận thức Chánh Pháp và, hơn nữa, mọi lời giảng của Đức Phật không thể được diễn giải như nhau khi giao thoa với các nền văn hóa khác cũng như trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử mà Phật Giáo đã hình thành nhiều con đường để đạt Giác Ngộ.
Sau 100 năm kể từ khi Đức Phật nhập diệt (khoảng năm 450TCN), ở lần kết tập thứ hai của Phật Giáo có sự hình thành hai phái bộ trong thực hành thọ trì giáo pháp. Thượng Tọa Bộ chủ trương giữ nguyên lời dạy của Đức Phật trong tu tập, được gọi là Phật Giáo nguyên thủy và Đại Chúng Bộ vẫn giữ những tinh túy trong bài giảng của Đức Phật nhưng được diễn giải tùy tình huống phát sinh trong xã hội để mở rộng giáo pháp đến mọi người.
Dần dần, Thượng Tọa Bộ phát triển thành Phật Giáo Nam Tông có tính hướng nội trong tu tập và người đạt được đến bát nhã trong thọ trì, thoát khỏi vòng luân hồi, được gọi là A La Hán. Phật Giáo Nam Tông được ví như Tiểu Thừa (Hinayana), tức là cỗ bánh xe tu tập đưa chính mình về đến cõi Niết Bàn.
Đại Chúng Bộ phát triển thành Phật Giáo Bắc Tông có tính hướng ngoại đến mọi chúng sinh trong tu tập. Biểu tượng của nhánh Phật Giáo này là các vị Bồ Tát, cũng tương tự như A La Hán nhưng họ có thể trở về lại cõi nhân gian, dưới hình hài con người, để tiếp tục cảm hóa chúng sinh bằng mọi phương tiện có thể. Phật Giáo Bắc Tông được ví như Đại Thừa (Mahayana), một cỗ xe tu luyện có thể đưa nhiều người cùng đạt đến Giác Ngộ.
Đại Chúng Bộ phát triển thành Phật Giáo Bắc Tông có tính hướng ngoại đến mọi chúng sinh trong tu tập. Biểu tượng của nhánh Phật Giáo này là các vị Bồ Tát, cũng tương tự như A La Hán nhưng họ có thể trở về lại cõi nhân gian, dưới hình hài con người, để tiếp tục cảm hóa chúng sinh bằng mọi phương tiện có thể. Phật Giáo Bắc Tông được ví như Đại Thừa (Mahayana), một cỗ xe tu luyện có thể đưa nhiều người cùng đạt đến Giác Ngộ.
Tây Tạng, một đất nước huyền diệu, diện tích chừng 5 lần Việt Nam lại bị chia cắt thành từng mảnh nhỏ với núi đồi cao ngút cắt ngang. Khi Đại Thừa được truyền bá đến đây vào thế kỷ V, Phật Giáo trở nên siêu nhiên chứa đựng nhiều yếu tố tâm linh huyền bí cùng các phép thần thông biến hóa. Chỉ như vậy mới có thể hoằng dương giáo pháp cũng như tạo nên nền văn hóa Tây Tạng huyền bí trong một đất nước bị chia cắt bởi vô vàn núi non hiểm trở. Điều gì khiến cho các bậc đạo sư từ đỉnh các ngọn núi cách trở có thể liên lạc với nhau? Đó là “thần giao cách cảm” hay những yếu tố siêu nhiên không thể thấu hiểu? Do đó, với tính chất huyền bí, Phật Giáo Tây Tạng (phái Tantra của Đại Thừa) được phát triển thành Phật Giáo Mật Tông hay còn được gọi là Kim Cương Thừa (Vajrayana).
Những con đường Phật Giáo tuy có khác nhau về phương tiện để hoằng dương Giáo Pháp nhưng đều có chung cái khởi nguyên, đó là Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, Luân hồi, Duyên khởi,.... và cũng cùng chung một mục đích duy nhất là đưa con người thoát khỏi u minh về đến cõi Niết Bàn thanh tịnh, không sinh không diệt.
Đến thế kỷ VII, Đại Thừa vượt qua dãy Himalaya để vào Trung Quốc bằng sự nỗ lực của các hòa thượng Pháp Hiển, Nghĩa Tịnh và Huyền Trang thì Đại Thừa như cá gặp nước, nở rộ lên những tư tưởng và triết lý mới. Gặp một nền văn hóa hoàn toàn khác và để có thể cảm hóa chúng sinh mà hàng vạn bộ kinh đã ra đời. Giáo pháp được diễn giải theo một cách đa dạng và phong phú. Người ta nói là người Ấn Độ ít nói và kiên trì thọ giới nên đã có rất nhiều người đạt quả A La Hán. Tuy nhiên, người Trung Quốc thì ngược lại, tu tập ít mà lý luận lại nhiều, nên rất ít người Trung Quốc đắc quả A La Hán hay hạnh Bồ Tát. Dẫu sao, do ham thích lý luận mà kinh sách thành tam sao thất bản nên hàng vạn kinh điển được lưu truyền tạo nên sức sống mới cho Đại Thừa.
Từ các bộ kinh Đại Thừa, các vị Bồ Tát, với trí huệ bát nhã cùng tâm từ bi, đã được sáng tạo và trở về cõi nhân gian để cứu độ chúng sinh trên đường tìm đến Giác Ngộ.
Đức Văn Thù Sư Lợi, bậc Đại Trí, hiện thân cho sự thấu hiểu Phật tính và sự giác ngộ Phật pháp bằng năng lực tinh tấn. Ngài là vị Bồ Tát tượng trưng cho sự tinh thông của trí tuệ. Hình tượng của Đức Văn Thù thường được mô tả là ngồi trên lưng con sư tử, tay phải cầm một thanh gươm thẳng đứng cao hơn đầu để chặt đứt mọi vô minh và tay trái ôm tập kinh Bát Nhã hướng vào tim.
Đức Phổ Hiền, bậc Đại Hạnh, hiện thân cho sự thấu hiểu cái nhất nguyên lẫn đa nguyên của tạo hóa, hiện hữu khắp mười phương và sử dụng phẩm hạnh của mình để đưa chúng sinh thoát khỏi vòng u minh. Đức Phổ Hiền được xem là người bảo hộ Tam Bảo của Phật. Ngài được mô tả là ngồi trên con voi trắng có sáu ngà như là chế ngự được lục căn (sắc, hương, vị, thanh, xúc và pháp), tay trái mang viên bảo châu và tay phải mang đóa hoa sen.
Đức Quán Thế Âm, bậc Đại Bi, với một tình thương sâu thẳm và bao dung đến mọi chúng sinh và được hiện thân thành người nữ. Một tay cầm bình cam lồ để tưới Diệu Pháp làm dịu ưu phiền. Bàn tay kia, chỉ đến những cảnh giới mà người có thể trải qua trong các kiếp vô thường. Vào thời nhà Đường (Trung Quốc) có một ông vua nào đó có tên húy là Thế nên từ đó Quán Thế Âm còn được gọi là Quan Âm.
Đức Thế Chí, bậc Đại Dũng, hiện thân cho ánh sáng soi rọi khắp mười phương xóa tan mọi khổ đau kiếp người. Đức Thế Chí thường được mô tả là đứng thẳng và hai tay nâng một nhành hoa sen.
Đức Địa Tạng, bậc Đại Hùng, người cai quản chúng sinh dưới tầng địa ngục hay giáo chủ cõi Vô Minh. Ngài thường được mô tả là đứng thẳng, một tay cầm chìa khóa canh cổng địa ngục và tay kia mang viên ngọc Như Ý chiếu ánh sáng lấp lánh xua tan bóng đêm.
Sự sáng tạo của Đại Thừa chưa dừng lại. Các vị Bồ Tát lại ngự trên đỉnh của bốn ngọn núi tuyệt đẹp tại Trung Quốc, còn được gọi là Tứ Đại Danh Sơn mà hiện nay được xem là các di sản văn hóa thế giới.
Sắc là không, không tức sắc
Không là sắc, sắc tức không (Thái hậu Ỷ Lan)
Phật Giáo cũng như mọi tôn giáo khác đều mở rộng vòng tay độ lượng để đưa con người ra khỏi chốn vô minh. Dẫu vậy, cái gì hưng thịnh tất có suy vong. Mọi thứ sẽ về lại với hư không. Cuộc đời chẳng qua là sắc sắc không không. Phật Giáo Ấn Độ đã lụi tàn và trở về nơi mà nó đã từng khởi đầu. Phật Giáo Việt Nam, có lẽ, đang trên đường mạt pháp khi ma quỷ trêu ghẹo thánh thần diễn ra khắp mọi nơi trên đất nước lầm than này. Thế nên, phận làm người vẫn còn mãi u mê…
--------------------------------------------------------
Hình 1: Hình tượng Đức Phật theo Tiểu Thừa là một đạo sư, một
con người thật sự trong hình hài người Ấn Độ cổ đại. http://www.artelino.eu/en/articles/buddhism/199-types-of-buddhism.html
Hình 2: Hình tượng Đức Phật theo Đại Thừa không phải là một
con người cụ thể mà chỉ là biểu tượng cho trí huệ bát nhã, thoát vòng sinh tử,
trường tồn cùng cõi Niết Bàn. Thông thường được khắc họa với đôi mắt mang tính
từ bi và miệng mang tính hỉ xả. http://www.sutrasmantras.info/
Hình 3: Hình tượng Đức Phật theo Kim Cương Thừa với các nét vẽ
siêu nhiên hay điển tích ẩn dụ trong bức khắc họa và thông thường Đức Phật có vầng
hào quang. http://www.buddha-statues.co.uk/about-buddha-statues/vajrayana-buddhism/
Hình 4: Đức Văn Thù http://namo84000.org/ton-%E1%BA%A3nh-ch%E1%BB%8Dn-l%E1%BB%8Dc-ton-%E1%BA%A3nh-van-thu-s%C6%B0-l%E1%BB%A3i-b%E1%BB%93-tat-2/
Hình 5: Đức Phổ Hiền http://chuahanson.com/phat-giao-va-doi-song/su-tich-bo-tat-pho-hien-277.html
Hình 6: Nga Mi Sơn, nơi cư ngụ của Phổ Hiền http://news.zing.vn/ve-dep-nhu-tranh-o-nui-nga-mi-vo-dang-post405186.html
Nhận xét
Đăng nhận xét