PHÍA SAU LŨY TRE LÀNG
Chiều nay, ngồi một mình ở một quán cà phê nhạc để hưởng một chút thư thả, lắng nghe những giai điệu êm đềm để cố tách mình ra khỏi cái thế giới buồn tẻ, lắm bon chen. Thế nhưng, nỗi lo cơm áo không từ bỏ một ai. Ly cà phê tăng giá vài ngàn đồng. Cơm trưa tăng giá, xăng tăng giá. Người ta bỗng nghèo đi một chút. Dường như, gần suốt cuộc đời chưa hề thấy cái gì giảm giá, chỉ trừ khi được khuyến mãi hay vào mùa thanh lý hàng tồn kho.
Cảnh nghèo đi và nợ nần thường xuyên lâu dần thành quen. Cách đây hai năm, mỗi em bé Việt ra đời bỗng nhiên mang món nợ 20 triệu đồng. Thế mà đến nay, con số ấy đã thành 35 triệu. Số nợ tăng lên quá nhanh còn hơn cả bà già cho vay nặng lãi. Thật là bất công khi một ai đó đã mượn tiền tiêu xài hay cố làm ăn một cách đầy ẩn ý mà cả xã hội phải lo trả nợ.
Mặc dầu vậy, cũng có người thoát khỏi cái vòng kim cô do nợ và nghèo đi. Có một báo cáo của tổ chức “Wealth” là Việt Nam nằm trong top 3 các quốc gia mà số người “siêu giàu” tăng lên nhanh nhất thế giới trong các năm 2012 – 2017 (hai nước kia là Trung Quốc và Bangladesh). Đó là chưa kể đến nhiều người bỗng chỉ “giàu” lên thôi, một cách nhanh chóng. Thế nên, người Việt lao động bình thường đang trở nên nghèo đi do giá cả tăng lên cũng là một tất yếu.
Hiện giờ, cuộc chiến tranh thương mại Mỹ – Trung và sự đình trệ buôn bán giữa Việt Nam và EU đã làm tăng thêm mối lo toan. Sự lưu hành đồng tiền Trung Quốc ở các tỉnh phía bắc chưa biết có tác động như thế nào đến cuộc sống vốn đã bấp bênh. Từ chuyện sử dụng đồng tiền làm tôi nhớ lại chuyến công tác của tôi cùng một người bạn đến Đài Loan vào năm 2010. Từ sân bay về đến Đài Bắc, bằng xe taxi, đã hơn 11 giờ đêm. Bạn tôi trả bằng tiền USD. Thế nhưng anh tài xế nói rằng: “Ở đất nước này, chúng tôi chỉ sử dụng duy nhất tiền Đài. Các bạn, bằng cách nào đó, hãy trả cho tôi bằng tiền Đài”. May thay! tôi có sẵn tiền Đài trong túi.
Thế nhưng, sự nghèo đi về tiền bạc chưa phải là nỗi lo lớn. Sự nghèo đi về văn hóa, về nhận thức thẩm mỹ,… của người Việt mới là điều đáng tiếc.
Bạo lực và ngôn từ không có trong tự điển được sử dụng thường xuyên hơn để giải quyết những khác biệt nhỏ nhen. Âm thanh hỗn độn chói tai từ khắp nơi dội về. Cảnh trí không gian rộng lớn bỗng nhơ nhớp hiện ra vừa vặn trong tầm nhìn. Mọi thứ đang dần trở thành một phần tất yếu của cuộc sống như món súp ngon mỗi ngày. Đến nỗi, hôm nào chưa được nghe vài chục tiếng còi xe thì có khi cảm thấy thiếu vắng một chút gì đó. Sáng nay, tôi vào lớp sớm 10 phút, buồn lòng khi thấy cô lao công đang quét dọn rất nhiều chai nhựa mà sinh viên đã vứt lại…. Tất cả đều đã trở nên quen thuộc… Quen thuộc đến mức rất bình thường, như từng nhuộm thắm vào trong dòng máu đỏ đã từ lâu năm.
Khi đến nước ngoài thì những điều như thế là không bình thường. Sự tương phản về lối sống, trong cách sinh hoạt thường nhật, so với người bản xứ làm lộ ra sự thấp kém về văn hóa trong ứng xử nơi công cộng của người Việt mỗi khi có dịp du lịch (dĩ nhiên không là tất cả).
Trong chuyến đi Đài Loan năm ấy, có một lần tôi và một giáo sư Đài Loan đi dạo phố Đài Bắc. Chợt trông thấy ba cô gái chạy ào sang đường, anh Đài Loan nói: “Đấy, người Việt đấy”. Tôi thắc mắc và được giải thích: “Chỉ có người Việt và Trung Quốc mới có thể liều mạng sang đường như vậy nhưng người Trung Quốc thì khác hơn một chút”. Và quả thật, đúng vậy, sau đó tôi đã nghe các cô gái ấy trò chuyện với nhau.
Năm 2013, tôi có dịp nhìn ngắm hàng giờ cây Thánh Giá mà Magellan, nhà hàng hải vĩ đại nhất mọi thời đại – người đầu tiên đi trọn vòng quanh thế giới sau hai chuyến đi, đã cắm xuống Cebu, Philippines, năm 1521. Đó là một trong những di tích lịch sử vĩ đại nhất của nhân loại. Sau đó, tôi đến mua hàng lưu niệm gần đó. Cô bán hàng rất ngạc nhiên khi biết tôi là người Việt và được giải thích: “Chỉ trông thấy dáng đi, bước chân và cặp mắt láo liên qua lại là biết Việt hay Trung Quốc thôi. Họ không đến đây một mình, thường thì 3 – 7 người. Họ thường không biết được nơi đây là gì, chỉ thấy lạ, rồi selfie vài tấm. Xong”.
Khắp mọi nơi, Bangkok, Kuala Lumpur, Singapore, … trong các nhà hàng lớn, nơi các tiệm cơm nhỏ đều có thông báo bằng tiếng Việt “ăn vừa đủ”. Mọi thứ tạo nên bức tranh buồn tẻ, chẳng đáng tự hào chút nào, của một nếp sống dị biệt so với phần còn lại của thế giới.
Sự gần tương đồng và dị biệt giữa người Việt và Trung Quốc khiến tôi nghĩ đến cái lũy tre làng đã bám chặt vào đời sống miền nông thôn Việt Nam từ cả ngàn năm xưa.
Tre được trồng khắp mọi nơi. Phía sau lũy tre làng là cả một cuộc sống bình dị, êm ả trôi theo dòng ngày tháng. Dân làng vui buồn cùng thiên nhiên, gắn bó nhau như anh em trong cùng một gia đình. Dần dần, “lũy tre làng” trở thành một biểu tượng văn hóa. Vừa mảnh mai như chiếc lá để tiếp nhận điều hay ý đẹp, vừa kiên cố bám chặt lấy đất để bảo vệ nếp sống đình làng từ bao đời để lại. Văn hóa đình làng từ phía sau “lũy tre làng” là một công cụ tuyệt vời để ngăn chặn sự đồng hóa bởi nền văn minh Trung Hoa vĩ đại từ nghìn năm trước.
Tuy nhiên, biểu tượng “lũy tre làng” bắt đầu lung lay từ đầu thế kỷ XVI, khoảng những năm 1500, khi các định chế phong kiến trở nên vững mạnh hơn, có thể can thiệp trực tiếp vào công việc đình làng. Kể từ lúc đó trở đi, nước Việt mạnh hơn nhưng lại bị tự chia cắt. Bốn triều đại phong kiến gần như tồn tại đồng thời: Bắc triều của nhà Mạc, Nam triều của nhà Lê và Trịnh, Nguyễn khiến người trong làng không còn thân thiện như xưa và khi gặp nhau thường tự hỏi: “bạn là người phe nào?” Sự cực đoan của các triều đại phong kiến khi đó, có khi một mất một còn, khiến cho, phía sau lũy tre làng, cuộc sống đã trở nên nhiều nghi kỵ và hận thù.
Đại Việt dần to lớn hơn dưới thời Trịnh – Nguyễn, những cuộc di dân vào nam và các cuộc chiến tranh liên miên cho đến cuối thế kỷ XX đã khiến biểu tượng “lũy tre làng” dường như không còn mang ý nghĩa nữa, hay đúng hơn là, đã dần biến mất. Câu hỏi: “Bạn là ai, bạn là người phe nào?” cứ lẩn quẩn mãi trong đầu người Việt mỗi khi gặp nhau.
Sự hận thù giữa các triều đại làm cho người Việt nghi kỵ nhau hay chính cuộc sống của người Việt nông nổi đã tạo nên các triều đại như vậy? Đó vẫn là một câu hỏi không lời giải đáp.
Giờ đây, một “lũy tre làng” mới bỗng dưng xuất hiện trong nếp sống người Việt. Lá tre mảnh mai, bỗng xào xạc khi chỉ là một ngọn nhẹ thoảng qua, để tiếp nhận các yếu tố không lành mạnh ngoại lai hay là mọi thứ mà người Trung Quốc đem đến. Tuy nhiên, lũy tre lại vô cùng kiên cố trước mọi nền văn minh từ khắp nơi trên thế giới có thể mang về.
“Lũy tre làng”, giờ đây, hiện ra là một biểu tượng để bảo vệ sự tự hào, niềm kiêu hãnh, mặc dù hết sức nhỏ nhoi như chỉ là một cơn mộng mị, cho một dân tộc vốn đã chịu nhiều khổ đau.
Cảnh nghèo đi và nợ nần thường xuyên lâu dần thành quen. Cách đây hai năm, mỗi em bé Việt ra đời bỗng nhiên mang món nợ 20 triệu đồng. Thế mà đến nay, con số ấy đã thành 35 triệu. Số nợ tăng lên quá nhanh còn hơn cả bà già cho vay nặng lãi. Thật là bất công khi một ai đó đã mượn tiền tiêu xài hay cố làm ăn một cách đầy ẩn ý mà cả xã hội phải lo trả nợ.
Mặc dầu vậy, cũng có người thoát khỏi cái vòng kim cô do nợ và nghèo đi. Có một báo cáo của tổ chức “Wealth” là Việt Nam nằm trong top 3 các quốc gia mà số người “siêu giàu” tăng lên nhanh nhất thế giới trong các năm 2012 – 2017 (hai nước kia là Trung Quốc và Bangladesh). Đó là chưa kể đến nhiều người bỗng chỉ “giàu” lên thôi, một cách nhanh chóng. Thế nên, người Việt lao động bình thường đang trở nên nghèo đi do giá cả tăng lên cũng là một tất yếu.
Hiện giờ, cuộc chiến tranh thương mại Mỹ – Trung và sự đình trệ buôn bán giữa Việt Nam và EU đã làm tăng thêm mối lo toan. Sự lưu hành đồng tiền Trung Quốc ở các tỉnh phía bắc chưa biết có tác động như thế nào đến cuộc sống vốn đã bấp bênh. Từ chuyện sử dụng đồng tiền làm tôi nhớ lại chuyến công tác của tôi cùng một người bạn đến Đài Loan vào năm 2010. Từ sân bay về đến Đài Bắc, bằng xe taxi, đã hơn 11 giờ đêm. Bạn tôi trả bằng tiền USD. Thế nhưng anh tài xế nói rằng: “Ở đất nước này, chúng tôi chỉ sử dụng duy nhất tiền Đài. Các bạn, bằng cách nào đó, hãy trả cho tôi bằng tiền Đài”. May thay! tôi có sẵn tiền Đài trong túi.
Thế nhưng, sự nghèo đi về tiền bạc chưa phải là nỗi lo lớn. Sự nghèo đi về văn hóa, về nhận thức thẩm mỹ,… của người Việt mới là điều đáng tiếc.
Bạo lực và ngôn từ không có trong tự điển được sử dụng thường xuyên hơn để giải quyết những khác biệt nhỏ nhen. Âm thanh hỗn độn chói tai từ khắp nơi dội về. Cảnh trí không gian rộng lớn bỗng nhơ nhớp hiện ra vừa vặn trong tầm nhìn. Mọi thứ đang dần trở thành một phần tất yếu của cuộc sống như món súp ngon mỗi ngày. Đến nỗi, hôm nào chưa được nghe vài chục tiếng còi xe thì có khi cảm thấy thiếu vắng một chút gì đó. Sáng nay, tôi vào lớp sớm 10 phút, buồn lòng khi thấy cô lao công đang quét dọn rất nhiều chai nhựa mà sinh viên đã vứt lại…. Tất cả đều đã trở nên quen thuộc… Quen thuộc đến mức rất bình thường, như từng nhuộm thắm vào trong dòng máu đỏ đã từ lâu năm.
Khi đến nước ngoài thì những điều như thế là không bình thường. Sự tương phản về lối sống, trong cách sinh hoạt thường nhật, so với người bản xứ làm lộ ra sự thấp kém về văn hóa trong ứng xử nơi công cộng của người Việt mỗi khi có dịp du lịch (dĩ nhiên không là tất cả).
Trong chuyến đi Đài Loan năm ấy, có một lần tôi và một giáo sư Đài Loan đi dạo phố Đài Bắc. Chợt trông thấy ba cô gái chạy ào sang đường, anh Đài Loan nói: “Đấy, người Việt đấy”. Tôi thắc mắc và được giải thích: “Chỉ có người Việt và Trung Quốc mới có thể liều mạng sang đường như vậy nhưng người Trung Quốc thì khác hơn một chút”. Và quả thật, đúng vậy, sau đó tôi đã nghe các cô gái ấy trò chuyện với nhau.
Năm 2013, tôi có dịp nhìn ngắm hàng giờ cây Thánh Giá mà Magellan, nhà hàng hải vĩ đại nhất mọi thời đại – người đầu tiên đi trọn vòng quanh thế giới sau hai chuyến đi, đã cắm xuống Cebu, Philippines, năm 1521. Đó là một trong những di tích lịch sử vĩ đại nhất của nhân loại. Sau đó, tôi đến mua hàng lưu niệm gần đó. Cô bán hàng rất ngạc nhiên khi biết tôi là người Việt và được giải thích: “Chỉ trông thấy dáng đi, bước chân và cặp mắt láo liên qua lại là biết Việt hay Trung Quốc thôi. Họ không đến đây một mình, thường thì 3 – 7 người. Họ thường không biết được nơi đây là gì, chỉ thấy lạ, rồi selfie vài tấm. Xong”.
Khắp mọi nơi, Bangkok, Kuala Lumpur, Singapore, … trong các nhà hàng lớn, nơi các tiệm cơm nhỏ đều có thông báo bằng tiếng Việt “ăn vừa đủ”. Mọi thứ tạo nên bức tranh buồn tẻ, chẳng đáng tự hào chút nào, của một nếp sống dị biệt so với phần còn lại của thế giới.
Sự gần tương đồng và dị biệt giữa người Việt và Trung Quốc khiến tôi nghĩ đến cái lũy tre làng đã bám chặt vào đời sống miền nông thôn Việt Nam từ cả ngàn năm xưa.
Tre được trồng khắp mọi nơi. Phía sau lũy tre làng là cả một cuộc sống bình dị, êm ả trôi theo dòng ngày tháng. Dân làng vui buồn cùng thiên nhiên, gắn bó nhau như anh em trong cùng một gia đình. Dần dần, “lũy tre làng” trở thành một biểu tượng văn hóa. Vừa mảnh mai như chiếc lá để tiếp nhận điều hay ý đẹp, vừa kiên cố bám chặt lấy đất để bảo vệ nếp sống đình làng từ bao đời để lại. Văn hóa đình làng từ phía sau “lũy tre làng” là một công cụ tuyệt vời để ngăn chặn sự đồng hóa bởi nền văn minh Trung Hoa vĩ đại từ nghìn năm trước.
Tuy nhiên, biểu tượng “lũy tre làng” bắt đầu lung lay từ đầu thế kỷ XVI, khoảng những năm 1500, khi các định chế phong kiến trở nên vững mạnh hơn, có thể can thiệp trực tiếp vào công việc đình làng. Kể từ lúc đó trở đi, nước Việt mạnh hơn nhưng lại bị tự chia cắt. Bốn triều đại phong kiến gần như tồn tại đồng thời: Bắc triều của nhà Mạc, Nam triều của nhà Lê và Trịnh, Nguyễn khiến người trong làng không còn thân thiện như xưa và khi gặp nhau thường tự hỏi: “bạn là người phe nào?” Sự cực đoan của các triều đại phong kiến khi đó, có khi một mất một còn, khiến cho, phía sau lũy tre làng, cuộc sống đã trở nên nhiều nghi kỵ và hận thù.
Đại Việt dần to lớn hơn dưới thời Trịnh – Nguyễn, những cuộc di dân vào nam và các cuộc chiến tranh liên miên cho đến cuối thế kỷ XX đã khiến biểu tượng “lũy tre làng” dường như không còn mang ý nghĩa nữa, hay đúng hơn là, đã dần biến mất. Câu hỏi: “Bạn là ai, bạn là người phe nào?” cứ lẩn quẩn mãi trong đầu người Việt mỗi khi gặp nhau.
Sự hận thù giữa các triều đại làm cho người Việt nghi kỵ nhau hay chính cuộc sống của người Việt nông nổi đã tạo nên các triều đại như vậy? Đó vẫn là một câu hỏi không lời giải đáp.
Giờ đây, một “lũy tre làng” mới bỗng dưng xuất hiện trong nếp sống người Việt. Lá tre mảnh mai, bỗng xào xạc khi chỉ là một ngọn nhẹ thoảng qua, để tiếp nhận các yếu tố không lành mạnh ngoại lai hay là mọi thứ mà người Trung Quốc đem đến. Tuy nhiên, lũy tre lại vô cùng kiên cố trước mọi nền văn minh từ khắp nơi trên thế giới có thể mang về.
“Lũy tre làng”, giờ đây, hiện ra là một biểu tượng để bảo vệ sự tự hào, niềm kiêu hãnh, mặc dù hết sức nhỏ nhoi như chỉ là một cơn mộng mị, cho một dân tộc vốn đã chịu nhiều khổ đau.
Nhận xét
Đăng nhận xét