TÂY NAM BỘ - QUÁ KHỨ VÀ TƯƠNG LAI
Đã lâu rồi, tôi không có dịp trở về miền tây nam bộ để ngắm nhìn cánh đồng trải dài bất tận giữa mùa lúa mới. Chẳng biết được con sông lượn lờ uốn khúc từ thuở nào, giờ đây, có còn êm ả, hiền hòa như những năm xưa.
Tây Nam bộ xưa kia là một vùng đất hoang vu mà chủ nhân của nó là người Môn và Khmer. Nhu cầu bành trướng lãnh thổ của xứ Đàng Trong và những rối loạn chính trị ở Trung Quốc khiến cho người Việt và người Hoa đến lập nghiệp dài lâu ở vùng đất này từ thế kỷ XVII. Nếu người Việt đến miền tây nam bộ là những lưu dân mưu tìm đất sống hoặc là các binh sĩ không còn chốn dung thân thì chừng vài chục ngàn người Hoa ào ạt đến đây theo ba hướng: hướng của Mạc Cửu đến Hà Tiên, Dương Ngạn Địch đến Mỹ Tho và Trần Thượng Xuyên đến Cù Lao Phố (Biên Hòa). Họ đến bằng những chiếc tàu theo ba hướng khác nhau nên người Việt nam bộ thường gọi họ là Ba Tàu.
Các nhóm dân tộc khác nhau, gồm Việt – Khmer – Hoa – Chămpa, cùng chung sống hiền hòa trong cảnh êm đềm miền sông nước nam bộ. Người Việt tự nhận mình là anh chị Hai. Ngôn ngữ nam bộ không có anh hay chị Cả mà chữ Cả, có nghĩa “tối cao”, được dành cho người uy tín nhất làng như ông Cả hay Cha Cả (Bá Đa Lộc – Pierre Joseph Georges Pigneau de Behaine). Cũng có giả thuyết khác cho rằng chữ Ba trong Ba Tàu là thế này: người Hoa ít hơn Việt, không màng chính trị, chỉ lo làm ăn, vai vế xã hội kém hơn nên được gọi là anh Ba. Hơn nữa, khi di cư vào nam bộ, nam nhiều hơn nữ vì đa số là lính nhà Minh chạy loạn nên dường như không thấy “chị Ba” bao giờ. Người Hoa lại tự nhận mình chỉ là “khách trú” thôi và nói theo âm nam bộ thành Ba Tàu “cắc chú”. Tư, Năm, Sáu trở lại dành cho người Việt. Người gốc Ấn đến sau và được nhận cái tên anh Bảy Chà Và (Java).
Cuộc sống bình yên là thế nhưng bỗng trở nên tang thương vào những năm cuối thế kỷ XVIII từ các trận chiến khốc liệt giữa binh lính chúa Nguyễn và nhà Tây Sơn. Hơn 10.000 người Hoa ở Cù Lao Phố, vốn được đặc ân từ các chúa Nguyễn để định cư, đã bị tàn sát bởi quân Tây Sơn.
Kênh Vĩnh Tế dài hơn 80km, nằm giữa hai tỉnh An Giang và Kiên Giang, là con kênh đào lớn nhất trong giai đoạn này, được thực hiện trong những năm 1819 – 1823 bởi Nguyễn Văn Thoại (Thoại Ngọc Hầu) cùng gần 100.000 nhân công có mặt thường trực. Con kênh được xem như khởi đầu giai đoạn mà con người cải tạo tự nhiên phục vụ cho các mục đích tưới tiêu, giao thông thủy, biên phòng, thương mại,… ở miền tây nam bộ. Từ thời kỳ đó đến nay, tây nam bộ đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Đã có những lúc nơi này là miền đất trù phú bậc nhất. Đất lành chim đậu và lưu dân như những cánh chim tha phương từ khắp nơi kéo về. Tuy thế, ngày hôm nay, tây nam bộ dường như đang bước vào thời kỳ suy tàn, không những về mặt tự nhiên, biến đổi khí hậu, nguồn nước mà cả về mặt xã hội như văn hóa, lối sống,… Những chiếc cầu vừa hiện đại vừa tuyệt đẹp như Mỹ Thuận, Cần Thơ, Cổ Chiên, Hàm Luông, Rạch Miễu, Năm Căn,… được bắc ngang qua các sông lớn trong 20 năm nay để phá thế cô lập các vùng miền, có lẽ, chưa đủ để làm thay đổi số phận.
Đoạn sông Mekong chảy vào nam bộ được gọi là Cửu Long vì đổ ra biển bởi chín cửa. Từ Tiền Giang đổ ra biển có 6 cửa, từ bắc xuống nam gồm: cửa Tiểu, cửa Đại, Ba Lai, Ngao Châu, Hàm Luông và Cổ Chiêng. Từ Hậu Giang ra biển có 3 cửa: Định An, Ba Thắc và Trần Đề. Tuy nhiên, hiện giờ chỉ còn lại 7 cửa sông, hai cửa sông đã biến mất hoàn toàn là Ba Lai và Ba Thắc. Nếu Ba Thắc đã chết từ đầu thế kỷ XX vì các quá trình tự nhiên, do sự tích tụ các cồn cát ngăn dòng chảy thì Ba Lai đã chết vì chính bàn tay con người do xây đập ngăn mặn từ những năm gần đây.
Quá trình bồi lắng bùn cát ở khu vực cửa sông đang dần tăng lên và phức tạp hơn khiến lượng tàu thủy vào cửa sông ngày càng giảm, mặc dù công tác nạo vét lòng sông được thực hiện liên tục. Lượng tàu bè vào cửa Định An (sông Hậu) năm 2009 chỉ còn 13% so với năm 2006 (1).
Ủy ban sông Mekong (Mekong River Commission – MRC), dưới sự bảo trở của Liên Hiệp Quốc, được thành lập từ năm 1995 gồm bốn quốc gia Việt Nam, Lào, Campuchia và Thái Lan. Mặc dù, sông Mekong xuất phát từ cao nguyên Tây Tạng nhưng Trung Quốc đứng ngoài tổ chức này và cùng Myanmar trở thành hai đối tác của Ủy ban. Mục tiêu của MRC là hợp tác, cùng khai thác nguồn nước sông Mekong và giải quyết những tác động môi trường xuyên biên giới giữa các quốc gia thành viên. Tuy nhiên, nhiệm vụ ấy có lẽ đã thất bại và thành viên Việt Nam của ủy ban chưa đủ bản lĩnh để bảo vệ quyền lợi của đất nước nằm hạ nguồn con sông.
Sự phát triển kinh tế trong khu vực đã mọc lên các đập thủy điện dọc trên sông Mekong. Trên lãnh thổ Lào đã có ba đập thủy điện lớn. Xa lên phía thượng nguồn, lãnh thổ Trung Quốc, rất nhiều đập thủy điện khổng lồ đã, đang và có kế hoạch xây dựng.
Sự xuất hiện các hồ chứa nước khổng lồ có thể làm lượng mưa nhỏ quanh hồ tăng lên dẫn đến sự tăng thảm thực vật rể ngắn nhưng lại gây tác hại ghê gớm cho vùng hạ lưu. Các hồ này làm thay đổi hẳn chế độ thủy văn sinh thái, giữ lại lượng trầm tích, thủy sản. Lượng nước bốc hơi từ hồ tăng cao làm nguồn nước đổ về tây nam bộ kém dần đi gây nên sự nhiễm mặn khu vực cửa sông. Hiện nay, có nơi mặn đã lấn sâu vào đất liền gần 100km và đang tăng lên nhanh. Mặc dù là một vùng sông nước mênh mông nhưng tây nam bộ đang đối mặt với nguy cơ khô hạn, thiếu nước và thậm chí là hạn hán. Đó là chưa kể đến khi lũ kéo về, các đập thủy điện xả lũ “đúng qui trình” vào các ngày triều cường (mùng 2,3 hay 16,17 âm lịch) gây nên tai họa rất lớn cho dân cư vùng hạ lưu.
Tây nam bộ còn đang đối mặt với sự tự hủy diệt của chính mình. Rất nhiều dự án thiếu nghiên cứu cơ bản, thiếu đánh giá tác động môi trường và can thiệp thô bạo vào hệ sinh thái đang giết dần tài nguyên tây nam bộ. Kinh nghiệm từ biển Aral, hồ rộng thứ tư thế giới bằng ½ Việt Nam, nằm giữa Uzbekistan và Kazakhstan, vẫn còn đó. Người ta chỉ thay đổi dòng chảy một con sông mà biển Aral đã phải chết. Những dự án đang hủy hoại hệ sinh thái và môi trường có thể kể là: dự án đê bao chống lũ; cống đập chặn mặn; nhà máy giấy Lee & Man; 14 nhà máy nhiệt điện than;…
Ngoài ra, các kịch bản biến đổi khí hậu cho đến cuối thế kỷ XXI đều dẫn đến kết quả là tây nam bộ sẽ chìm dần trong nước biển. Theo các kịch bản đó thì 40% tây nam bộ, 17% Sài Gòn sẽ nằm gọn trong lòng biển sau vài chục năm nữa (2). Tương lai của tây nam bộ không biết rồi sẽ ra sao?
Dù sao thì tây nam bộ hiện vẫn là vùng đất trù phú, nơi xuất khẩu gạo vào bậc nhất thế giới. Thế nhưng 18 triệu dân nơi đây không thể giàu lên từ mảnh đất của mình. Đất không tạo ra sự giàu có, hạt gạo chỉ khiến người nông dân nghèo thêm. Tây nam bộ luôn là vũng trũng trong lĩnh vực giáo dục và tri thức. Một trong các kinh nghiệm đau thương của nhân loại là đất nước sở hữu càng nhiều tài nguyên thì người dân của đất nước đó càng nghèo nếu chính phủ không có chính sách can thiệp phù hợp. Tây nam bộ hiện đang là như vậy. Người dân phải tự tìm lối thoát cho riêng mình. Không còn là miền đất hứa nữa và lũ lượt lớp người kéo nhau ra đi để tìm đất mới. Hàng vạn cô dâu từ tây nam bộ đã đến Đài Loan, Hàn Quốc hay Trung Quốc mưu tìm cuộc sống tốt hơn cho gia đình, thậm chí còn ý thức là hy sinh cuộc đời mình. Hàng vạn công nhân lao động đã đến Malaysia, UAE, Ả Rập,… Hàng vạn thanh niên, mà cuộc đời đã gắn liền với cây lúa, đã đến miền đông nam bộ hay Sài Gòn tìm việc làm trong các nhà máy mặc dù chưa được đào tạo nghề nghiệp. Cuộc đời của họ rồi sẽ ra sao?
Lối thoát nào cho tây nam bộ?
(1) http://vea.gov.vn/vn/hientrangmoitruong/hientrangmoitruong/Pages/S%C3%B4ngC%E1%BB%ADuLongch%E1%BB%89c%C3%B2nTh%E1%BA%A5tLong.aspx
(2) http://www.tinmoitruong.vn/khi-hau/cap-nhat--hoan-thien-kich-ban-bien-doi-khi-hau-va-nuoc-bien-dang-nam-2016_21_49069_1.html
Ảnh https://www.vntrip.vn/cam-nang/cac-tinh-mien-tay-nam-bo-48989
Tây Nam bộ xưa kia là một vùng đất hoang vu mà chủ nhân của nó là người Môn và Khmer. Nhu cầu bành trướng lãnh thổ của xứ Đàng Trong và những rối loạn chính trị ở Trung Quốc khiến cho người Việt và người Hoa đến lập nghiệp dài lâu ở vùng đất này từ thế kỷ XVII. Nếu người Việt đến miền tây nam bộ là những lưu dân mưu tìm đất sống hoặc là các binh sĩ không còn chốn dung thân thì chừng vài chục ngàn người Hoa ào ạt đến đây theo ba hướng: hướng của Mạc Cửu đến Hà Tiên, Dương Ngạn Địch đến Mỹ Tho và Trần Thượng Xuyên đến Cù Lao Phố (Biên Hòa). Họ đến bằng những chiếc tàu theo ba hướng khác nhau nên người Việt nam bộ thường gọi họ là Ba Tàu.
Các nhóm dân tộc khác nhau, gồm Việt – Khmer – Hoa – Chămpa, cùng chung sống hiền hòa trong cảnh êm đềm miền sông nước nam bộ. Người Việt tự nhận mình là anh chị Hai. Ngôn ngữ nam bộ không có anh hay chị Cả mà chữ Cả, có nghĩa “tối cao”, được dành cho người uy tín nhất làng như ông Cả hay Cha Cả (Bá Đa Lộc – Pierre Joseph Georges Pigneau de Behaine). Cũng có giả thuyết khác cho rằng chữ Ba trong Ba Tàu là thế này: người Hoa ít hơn Việt, không màng chính trị, chỉ lo làm ăn, vai vế xã hội kém hơn nên được gọi là anh Ba. Hơn nữa, khi di cư vào nam bộ, nam nhiều hơn nữ vì đa số là lính nhà Minh chạy loạn nên dường như không thấy “chị Ba” bao giờ. Người Hoa lại tự nhận mình chỉ là “khách trú” thôi và nói theo âm nam bộ thành Ba Tàu “cắc chú”. Tư, Năm, Sáu trở lại dành cho người Việt. Người gốc Ấn đến sau và được nhận cái tên anh Bảy Chà Và (Java).
Cuộc sống bình yên là thế nhưng bỗng trở nên tang thương vào những năm cuối thế kỷ XVIII từ các trận chiến khốc liệt giữa binh lính chúa Nguyễn và nhà Tây Sơn. Hơn 10.000 người Hoa ở Cù Lao Phố, vốn được đặc ân từ các chúa Nguyễn để định cư, đã bị tàn sát bởi quân Tây Sơn.
Kênh Vĩnh Tế dài hơn 80km, nằm giữa hai tỉnh An Giang và Kiên Giang, là con kênh đào lớn nhất trong giai đoạn này, được thực hiện trong những năm 1819 – 1823 bởi Nguyễn Văn Thoại (Thoại Ngọc Hầu) cùng gần 100.000 nhân công có mặt thường trực. Con kênh được xem như khởi đầu giai đoạn mà con người cải tạo tự nhiên phục vụ cho các mục đích tưới tiêu, giao thông thủy, biên phòng, thương mại,… ở miền tây nam bộ. Từ thời kỳ đó đến nay, tây nam bộ đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Đã có những lúc nơi này là miền đất trù phú bậc nhất. Đất lành chim đậu và lưu dân như những cánh chim tha phương từ khắp nơi kéo về. Tuy thế, ngày hôm nay, tây nam bộ dường như đang bước vào thời kỳ suy tàn, không những về mặt tự nhiên, biến đổi khí hậu, nguồn nước mà cả về mặt xã hội như văn hóa, lối sống,… Những chiếc cầu vừa hiện đại vừa tuyệt đẹp như Mỹ Thuận, Cần Thơ, Cổ Chiên, Hàm Luông, Rạch Miễu, Năm Căn,… được bắc ngang qua các sông lớn trong 20 năm nay để phá thế cô lập các vùng miền, có lẽ, chưa đủ để làm thay đổi số phận.
Đoạn sông Mekong chảy vào nam bộ được gọi là Cửu Long vì đổ ra biển bởi chín cửa. Từ Tiền Giang đổ ra biển có 6 cửa, từ bắc xuống nam gồm: cửa Tiểu, cửa Đại, Ba Lai, Ngao Châu, Hàm Luông và Cổ Chiêng. Từ Hậu Giang ra biển có 3 cửa: Định An, Ba Thắc và Trần Đề. Tuy nhiên, hiện giờ chỉ còn lại 7 cửa sông, hai cửa sông đã biến mất hoàn toàn là Ba Lai và Ba Thắc. Nếu Ba Thắc đã chết từ đầu thế kỷ XX vì các quá trình tự nhiên, do sự tích tụ các cồn cát ngăn dòng chảy thì Ba Lai đã chết vì chính bàn tay con người do xây đập ngăn mặn từ những năm gần đây.
Quá trình bồi lắng bùn cát ở khu vực cửa sông đang dần tăng lên và phức tạp hơn khiến lượng tàu thủy vào cửa sông ngày càng giảm, mặc dù công tác nạo vét lòng sông được thực hiện liên tục. Lượng tàu bè vào cửa Định An (sông Hậu) năm 2009 chỉ còn 13% so với năm 2006 (1).
Ủy ban sông Mekong (Mekong River Commission – MRC), dưới sự bảo trở của Liên Hiệp Quốc, được thành lập từ năm 1995 gồm bốn quốc gia Việt Nam, Lào, Campuchia và Thái Lan. Mặc dù, sông Mekong xuất phát từ cao nguyên Tây Tạng nhưng Trung Quốc đứng ngoài tổ chức này và cùng Myanmar trở thành hai đối tác của Ủy ban. Mục tiêu của MRC là hợp tác, cùng khai thác nguồn nước sông Mekong và giải quyết những tác động môi trường xuyên biên giới giữa các quốc gia thành viên. Tuy nhiên, nhiệm vụ ấy có lẽ đã thất bại và thành viên Việt Nam của ủy ban chưa đủ bản lĩnh để bảo vệ quyền lợi của đất nước nằm hạ nguồn con sông.
Sự phát triển kinh tế trong khu vực đã mọc lên các đập thủy điện dọc trên sông Mekong. Trên lãnh thổ Lào đã có ba đập thủy điện lớn. Xa lên phía thượng nguồn, lãnh thổ Trung Quốc, rất nhiều đập thủy điện khổng lồ đã, đang và có kế hoạch xây dựng.
Sự xuất hiện các hồ chứa nước khổng lồ có thể làm lượng mưa nhỏ quanh hồ tăng lên dẫn đến sự tăng thảm thực vật rể ngắn nhưng lại gây tác hại ghê gớm cho vùng hạ lưu. Các hồ này làm thay đổi hẳn chế độ thủy văn sinh thái, giữ lại lượng trầm tích, thủy sản. Lượng nước bốc hơi từ hồ tăng cao làm nguồn nước đổ về tây nam bộ kém dần đi gây nên sự nhiễm mặn khu vực cửa sông. Hiện nay, có nơi mặn đã lấn sâu vào đất liền gần 100km và đang tăng lên nhanh. Mặc dù là một vùng sông nước mênh mông nhưng tây nam bộ đang đối mặt với nguy cơ khô hạn, thiếu nước và thậm chí là hạn hán. Đó là chưa kể đến khi lũ kéo về, các đập thủy điện xả lũ “đúng qui trình” vào các ngày triều cường (mùng 2,3 hay 16,17 âm lịch) gây nên tai họa rất lớn cho dân cư vùng hạ lưu.
Tây nam bộ còn đang đối mặt với sự tự hủy diệt của chính mình. Rất nhiều dự án thiếu nghiên cứu cơ bản, thiếu đánh giá tác động môi trường và can thiệp thô bạo vào hệ sinh thái đang giết dần tài nguyên tây nam bộ. Kinh nghiệm từ biển Aral, hồ rộng thứ tư thế giới bằng ½ Việt Nam, nằm giữa Uzbekistan và Kazakhstan, vẫn còn đó. Người ta chỉ thay đổi dòng chảy một con sông mà biển Aral đã phải chết. Những dự án đang hủy hoại hệ sinh thái và môi trường có thể kể là: dự án đê bao chống lũ; cống đập chặn mặn; nhà máy giấy Lee & Man; 14 nhà máy nhiệt điện than;…
Ngoài ra, các kịch bản biến đổi khí hậu cho đến cuối thế kỷ XXI đều dẫn đến kết quả là tây nam bộ sẽ chìm dần trong nước biển. Theo các kịch bản đó thì 40% tây nam bộ, 17% Sài Gòn sẽ nằm gọn trong lòng biển sau vài chục năm nữa (2). Tương lai của tây nam bộ không biết rồi sẽ ra sao?
Dù sao thì tây nam bộ hiện vẫn là vùng đất trù phú, nơi xuất khẩu gạo vào bậc nhất thế giới. Thế nhưng 18 triệu dân nơi đây không thể giàu lên từ mảnh đất của mình. Đất không tạo ra sự giàu có, hạt gạo chỉ khiến người nông dân nghèo thêm. Tây nam bộ luôn là vũng trũng trong lĩnh vực giáo dục và tri thức. Một trong các kinh nghiệm đau thương của nhân loại là đất nước sở hữu càng nhiều tài nguyên thì người dân của đất nước đó càng nghèo nếu chính phủ không có chính sách can thiệp phù hợp. Tây nam bộ hiện đang là như vậy. Người dân phải tự tìm lối thoát cho riêng mình. Không còn là miền đất hứa nữa và lũ lượt lớp người kéo nhau ra đi để tìm đất mới. Hàng vạn cô dâu từ tây nam bộ đã đến Đài Loan, Hàn Quốc hay Trung Quốc mưu tìm cuộc sống tốt hơn cho gia đình, thậm chí còn ý thức là hy sinh cuộc đời mình. Hàng vạn công nhân lao động đã đến Malaysia, UAE, Ả Rập,… Hàng vạn thanh niên, mà cuộc đời đã gắn liền với cây lúa, đã đến miền đông nam bộ hay Sài Gòn tìm việc làm trong các nhà máy mặc dù chưa được đào tạo nghề nghiệp. Cuộc đời của họ rồi sẽ ra sao?
Lối thoát nào cho tây nam bộ?
(1) http://vea.gov.vn/vn/hientrangmoitruong/hientrangmoitruong/Pages/S%C3%B4ngC%E1%BB%ADuLongch%E1%BB%89c%C3%B2nTh%E1%BA%A5tLong.aspx
(2) http://www.tinmoitruong.vn/khi-hau/cap-nhat--hoan-thien-kich-ban-bien-doi-khi-hau-va-nuoc-bien-dang-nam-2016_21_49069_1.html
Ảnh https://www.vntrip.vn/cam-nang/cac-tinh-mien-tay-nam-bo-48989
Nhận xét
Đăng nhận xét