LỄ VESAK NĂM 2562 PHẬT LỊCH

Những ngôi chùa tôn nghiêm bị đập phá, những nhà thờ cổ kính bị bức tử bằng lệnh cưỡng chế khiến tôi không khỏi nhớ đến bài hát “Này em có nhớ” của Trịnh Công Sơn:

Chúa đã bỏ loài người
Phật đã bỏ loài người
Này em, xin cứ phụ người…

Tôi thích hình ảnh các tổng thống Mỹ, khi tuyên thệ nhậm chức, đặt tay lên quyển Thánh kinh. Tôi thích hình ảnh các cầu thủ bóng đá, sau khi ghi bàn, làm dấu thánh hoặc là quỳ mọp xuống hôn miếng đất. Tài năng đích thực của họ là vậy nhưng họ vẫn nghĩ là nhờ may mắn, nhờ một chút ơn trên. Trong khi đó, rất nhiều người bạn quanh tôi, trên đường đi tới, được trợ giúp từ gia đình, bạn bè, từ nhân viên của mình bằng mọi biện pháp có thể hay thậm chí nhờ vào sự bất bình đẳng xã hội mà có. Thế nhưng, sau khi đạt danh vọng, họ thường phủ nhận mọi thứ và nghĩ là chỉ duy nhất tài năng tuyệt vời đã tạo nên sự phi thường. Thế nên, tâm linh là một yếu tố không thể thiếu góp phần cứu rỗi con người.

Phật giáo Bắc tông (Đại thừa) xưa kia nương theo văn hóa tâm linh của các dân tộc địa phương để thi triển giáo pháp và đã tạo ra hàng vạn bộ kinh. Ngày nay, quá trình đang diễn biến khác đi. Phật giáo tại Việt Nam và Trung Quốc, vốn được quản lý bởi các Giáo hội, một phần nào đó lại là công cụ trong tay một số người, không hiểu biết sự tu tập, lại gieo vào xã hội những điều không bình thường.

Lễ Vesak, kỷ niệm ngày Phật đản sanh hay cũng có thể gộp chung ba ngày đản sanh – thành đạo – nhập diệt của Đức Phật, trước kia được tổ chức vào rằm tháng 4 hay mùng 8 tháng 4 âm lịch, tùy vào văn hóa các dân tộc theo Phật giáo. Tuy nhiên, hiện nay, Liên Hiệp Quốc quyết định tổ chức lễ Vesak vào ngày rằm đầu tiên trong tháng 5 dương lịch, mà năm nay nhằm ngày 29/5.

Nhân lễ Vesak, một bài viết về Đức Phật một năm trước được đăng lại trên trang này.
------------------------------------------------------------------------------------

RẰM THÁNG TƯ ÂM LỊCH – 2642 NĂM ĐỨC PHẬT ĐẢN SINH

Tôi chưa từng đến Ấn Độ để có thể tự mình trải nghiệm về quê hương Đức Phật, sự hưng thịnh cũng như sự suy tàn của Phật Giáo nơi đây. Một đất nước tâm linh, hiện thân với vô số thánh thần Ấn Độ Giáo biến hóa khôn lường chi phối mọi mặt lên đời sống con người. Lục địa này độc lập vào năm 1947 từ người Anh. Tuy nhiên, người dân lại ngỡ ngàng với nền quản trị thế quyền hiện đại khiến vài triệu người đã chết khi phân chia thành các quốc gia Ấn Độ và Pakistan. Năm 1971 lại có thêm quốc gia Bangladesh xuất hiện.

Phật Giáo đã từng là quốc giáo huy hoàng dưới thời đức vua A Dục (Asoka) vào thế kỷ III TCN. Thế nhưng, mảnh đất này là nơi là nơi tranh giành của rất nhiều thế lực như Mông Cổ, Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Tư, Hồi Giáo,.. và cả Hy Lạp cổ đại làm cho Ấn Độ trở nên hết sức phức tạp và luôn xung đột về sắc dân, ngôn ngữ, văn hóa cũng như các tôn giáo của chính họ. Dần dần, Phật Giáo Ấn Độ thu hẹp lại và lụi tàn. Đến thế kỷ XIII, sau hơn 1.800 năm thi triển giáo pháp, Phật Giáo Ấn Độ lại quay về nơi mà nó đã từng thoát thai. Ngày nay Phật Giáo nơi này chỉ còn lại là một nhánh trong vô vàn nhánh khác nhau của Ấn Độ Giáo, lấy luân hồi làm niềm tin cho kiếp người. Và ngay cả Đức Phật Thích Ca cũng chỉ được xem là sự hiện hữu của một hoá thân trong vô lượng biến hoá hình tướng của thần Vishnu để bảo hộ Ấn Độ Giáo.

Đối với các du khách, Phật Giáo Ấn Độ gồm 4 di tích lịch sử chính. Đó là:

1. Lâm Tỳ Ni (Lumbini) nơi Đức Phật đản sinh;
2. Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh-Gaya), Đức Phật thành đạo;
3. Vườn Lộc Uyển (Sarnath), Đức Phật chuyển pháp luân đầu tiên; và
4. Câu Thi Na (Kusinagara), Đức Phật nhập diệt (hình vẽ).

Ngoài ra, một số di tích khác đã trở nên hoang tàn như Sravasti, Vaisali, Sankasya, ... là những nơi Đức Phật thường lui tới để giáo hóa chúng sinh.

Đông bắc Ấn Độ là một miền đất vô cùng kỳ vĩ với lịch sử thấm đẫm tang thương cùng dãy Himalaya sừng sững vút cao lên tận trời. Nơi này ánh nắng Mặt Trời mùa hè rực cháy như thiêu đốt mọi thứ. Và, sông Hằng, một kiệt tác kiều diễm của thiên nhiên, lướt ngang qua như hiện thân của vẻ đẹp tâm linh huyền bí gồm ba thế giới hoàn toàn tương phản nhau dọc theo chiều dài con sông.

Thượng nguồn, với dãy Himalaya hùng vĩ, được ví như ngón chân của thần Vishnu từ trời cao thò xuống, là thế giới của Trời và thánh thần.
Miền trung du con sông là hiện thân cõi nhân gian vừa quyến rũ vừa u ẩn như cảnh vô thường của kiếp người.
Hạ lưu và cửa sông lại hiện ra như thế giới của ác quỷ với những đợt sóng và xoáy nước cuồn cuộn.

Từ 8.000 năm trước, những người Aryan, có nguồn gốc từ châu Âu, đến định cư tại vùng này và đẩy người Dravidian, gốc Nam Á (da sậm hơn), xuống phía nam lục địa. Người Aryan đã tạo nên thần thoại Ấn Độ với vô số thần linh mà các thần tối cao của họ là Brahma – Đấng Toàn Năng và Sáng Tạo, Vishnu – Đấng Bảo Hộ và Shiva – Đấng Hủy Diệt làm trung tâm cai quản nhân gian. Ba vị thần tối cao này tuy vô lượng biến hóa hình tướng, tuỳ duyên sinh diệt, tùy tâm hóa thân thành muôn hình vạn trạng trong mọi cảnh giới nhưng lại vô hình vô tướng, trống rỗng, không thể nhận thức, tồn tại vĩnh cửu bất hoại, trường tồn, tĩnh tại, vô thủy vô chung.

Từ từ, thần thoại trở thành kinh Vệ Đà (Vedas) tồn tại song song cùng các bộ sử thi Mahabharata, Ramayana. Và sau hơn 2.000 năm phát triển, Vệ Đà lại trở thành thánh kinh cho một tôn giáo mới, đạo Bà La Môn (Brahmana).

Đạo Bà La Môn được xem như cội nguồn của sự bất bình đẳng xã hội với bốn giai cấp phân chia các hạng người. Ngoài ra, còn một thành phần nữa, người Paria, dường như không phải loài thú mà chẳng phải con người, bị vứt bỏ và không được phép đạp lên cái bóng của người thuộc các giai cấp trên.

Trong cảnh bi thương của một xã hội như vậy cùng cái nóng thiêu đốt của mùa hè 2.642 năm trước (năm 624 TCN) gieo rắc sự đau khổ tột cùng lên mọi chúng sinh, bỗng xuất hiện một con người. Ánh trăng tròn rực sáng tuyệt đẹp trong đêm rằm tháng tư âm lịch nằm vắt ngang qua bầu trời đen huyền diệu như chào đón sự ra đời của một con người vĩ đại trong số những con người vĩ đại nhất của mọi thời đại, tại khu vườn Lâm Tỳ Ni, kinh thành Ca Tỳ La Vệ mà nay thuộc nước Nepal. Đó là thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm (Siddhartha Gautama).

Ngài đã trải qua hai cuộc sống tương phản nhau trong xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ. Từ bỏ cuộc sống xa hoa tại hoàng gia Sakya (Thích Ca) để tu tập khổ hạnh nơi rừng thiêng nước độc tương tự các vị sa môn khác tìm đến sự giải thoát. Cuối cùng, dưới gốc cây Bồ Đề Bodh Gaya, Ngài tìm được con đường Trung Đạo để đạt Giác Ngộ.
 
Ngài đã bắt đầu những bài giảng đầu tiên, gọi là Chuyển Pháp Luân, tại vườn Lộc Uyển, kinh thành Varanasi ngày nay, với Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, Vô ngã, Luân hồi, Duyên khởi…

Năm 544 TCN, sau gần 50 năm hoằng dương giáo pháp đến mọi chúng sinh, Ngài nhập cõi Niết Bàn, thọ 80 tuổi, tại Câu Thi Na. Và năm Phật nhập diệt này được tính là năm đầu tiên của Phật lịch nên năm 2018 dương lịch được xem là năm 2562 của Phật lịch.

Ngay trước khi ra đi, Ngài có lời dạy cuối cùng đến mọi chúng sinh: “Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường và biến hoại, các con hãy cố gắng tự tu tập”.

Hình 2: đoạn sông Hằng ở Varanasi, nơi Phật chuyển pháp luân đầu tiên http://toursfromdelhi.com/taj-mahal-rajasthan-varanasi-tour-10n11d-delhi-jodhpur-jaisalmer-jodhpur-udaipur-jaipur-agra-varanasi/

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NHỮNG CON ĐƯỜNG THỦ ĐỨC XƯA

1,618: CON SỐ HUYỀN DIỆU

27/01 – NGÀY GIỖ PHẠM DUY

THỦ ĐỨC VÀ TRƯỜNG SƯ PHẠM KỸ THUẬT - NHỮNG NGÀY XƯA

MỘT THOÁNG NHA TRANG

CON NGƯỜI SINH RA ĐỂ SỐNG – CHỨ KHÔNG PHẢI CHUẨN BỊ SỐNG

NẮNG THÁNG TƯ

SÀI GÒN – KHI CHIỀU ĐÃ TẮT MÀ ĐÊM CHƯA VỀ

TÙY BÚT BÊN CHÙA THIÊN MỤ

DÁNG CAO NGUYÊN