NHỮNG CON ĐƯỜNG PHẬT GIÁO

Phật Giáo vốn thoát thai từ Bà La Môn vào thế kỷ VI TCN tại miền đông bắc Ấn Độ. Mảnh đất tâm linh huyền bí này đã cho ra đời rất nhiều quan niệm khác nhau về thế giới. Trong đó, Phật Giáo là một tôn giáo không tồn tại Thượng Đế và Đức Phật chỉ là người dẫn đường mang phương pháp tu tập cho muôn người tìm đến Giác Ngộ.

Vào lúc gần nhập diệt, khi còn ở kinh thành Vệ Xá, Đức Phật đã nói với Ananda: “Hãy tự mình là ngọn đèn soi sáng cho chính mình! Hãy nương tựa nơi chính mình! Dùng Chánh Pháp làm ngọn đèn! Dùng Chánh Pháp làm chỗ nương tựa! Đừng tìm đến một nguồn ánh sáng hay chỗ nương tựa nào khác”. Kể từ đó, tùy tâm nhận thức Chánh Pháp của mỗi người mà lời giảng của Đức Phật được diễn giải theo nhiều cách khác nhau. Hơn nữa, khi được lan rộng ra khắp nơi, sự giao thoa với các nền văn hóa khác và cùng những bước thăng trầm của lịch sử, Phật Giáo đã hình thành nhiều con đường để đạt Giác Ngộ.
 
Sau 100 năm kể từ khi Đức Phật nhập diệt (khoảng năm 450TCN), ở lần kết tập thứ hai, hai phái bộ khác nhau trong thực hành thọ trì giáo pháp đã được hình thành. Thượng Tọa Bộ chủ trương giữ nguyên lời dạy của Đức Phật trong tu tập, được gọi là Phật Giáo nguyên thủy và Đại Chúng Bộ vẫn giữ những tinh túy trong bài giảng của Đức Phật nhưng được diễn giải tùy tình huống phát sinh trong xã hội để mở rộng giáo pháp đến mọi người.

Dần dần, Thượng Tọa Bộ phát triển thành Phật Giáo Nam Tông có tính hướng nội trong tu tập. Người đạt được đến bát nhã trong thọ trì, thoát khỏi vòng luân hồi, được gọi là A La Hán. Phật Giáo Nam Tông được ví như Tiểu Thừa (Hinayana), tức là cỗ bánh xe tu tập đưa chính mình về đến cõi Niết Bàn.

Đại Chúng Bộ phát triển thành Phật Giáo Bắc Tông có tính hướng ngoại đến mọi chúng sinh trong tu tập. Biểu tượng của nhánh Phật Giáo này là các vị Bồ Tát, cũng tương tự như A La Hán nhưng họ có thể trở về lại cõi nhân gian, dưới hình hài con người, để tiếp tục cảm hóa chúng sinh bằng mọi phương tiện có thể. Phật Giáo Bắc Tông được ví như Đại Thừa (Mahayana), một cỗ xe tu luyện có thể đưa nhiều người cùng đạt đến Giác Ngộ.
 
Tây Tạng, độ cao trung bình 5000m so với mặt biển, có diện tích hơn 5 lần Việt Nam, lại bị chia cắt thành từng mảnh nhỏ với vô vàn núi đồi cao ngút cắt ngang. Khi Phật Giáo Bắc Tông được truyền bá đến đây vào thế kỷ V, Phật Giáo trở nên siêu nhiên vì chứa đựng nhiều yếu tố huyền bí cùng các phép thần thông biến hóa. Chỉ như vậy thì mới có thể hoằng dương giáo pháp cũng như tạo nên nền văn hóa kỳ diệu. Điều gì khiến cho các bậc đạo sư từ đỉnh các ngọn núi cách trở có thể liên lạc với nhau? Đó là “thần giao cách cảm” hay là những yếu tố siêu nhiên nào khác không thể thấu hiểu? Do đó, với tính chất huyền bí, Phật Giáo Tây Tạng (phái Tantra của Bắc Tông) được phát triển thành Phật Giáo Mật Tông hay còn được gọi là Kim Cương Thừa (Vajrayana).

Đến thế kỷ VII, Phật Giáo Bắc Tông vượt qua dãy Himalaya để vào Trung Quốc bằng sự nỗ lực của các hòa thượng Pháp Hiển, Nghĩa Tịnh và Huyền Trang. Đến lúc này, Phật Giáo Bắc Tông như cá gặp nước, nở rộ lên những tư tưởng và triết lý mới. Phật Giáo đã giao thoa với một nền văn hóa hoàn toàn khác. Để diễn giải giáo pháp, hàng vạn bộ kinh đã ra đời, đa dạng và phong phú.

Người Ấn Độ nói ít mà kiên trì thọ giới nên đã có rất nhiều người Ấn đạt quả A La Hán. Ngược lại, người Trung Quốc thì không kiên trì tu tập mà lại lý luận nhiều nên hiếm khi thấy ai đó người Trung Quốc đắc quả A La Hán hay hạnh Bồ Tát. Tuy nhiên, vì ham thích lý luận, kinh kệ lên đến hàng vạn bộ, tạo nên sức sống mới cho Phật Giáo ở Trung Quốc.
 
Từ các bộ kinh Bắc Tông, các vị Bồ Tát, với trí huệ bát nhã cùng tâm từ bi, đã được sáng tạo ra. Họ đã trở về lại cõi nhân gian để cứu độ chúng sinh. Có thể kể các vị Bồ Tát sau:

Đức Văn Thù Sư Lợi, bậc Đại Trí, hiện thân cho sự thấu hiểu Phật tính và sự tinh thông của trí tuệ. Hình tượng của Đức Văn Thù thường là ngồi trên lưng con sư tử, tay phải cầm một thanh gươm thẳng đứng và tay trái ôm tập kinh Bát Nhã hướng vào tim.

Đức Phổ Hiền, bậc Đại Hạnh, hiện thân cho sự thấu hiểu cái nhất nguyên và đa nguyên của tạo hóa. Ngài là người bảo hộ Tam Bảo của Phật, chế ngự được lục căn (sắc, hương, vị, thanh, xúc và pháp).

Đức Quán Thế Âm, bậc Đại Bi, với một tình thương sâu thẳm và bao dung đến mọi chúng sinh và được hiện thân thành người nữ. Một tay cầm bình cam lồ để tưới Diệu Pháp làm dịu ưu phiền. Bàn tay kia, chỉ đến những cảnh giới mà người có thể trải qua trong các kiếp vô thường. Vào thời nhà Đường (Trung Quốc) có một ông vua nào đó có tên húy là Thế nên từ đó Quán Thế Âm còn được gọi là Quan Âm.

Đức Thế Chí, bậc Đại Dũng, hiện thân cho ánh sáng soi rọi khắp mười phương xóa tan mọi khổ đau kiếp người.

Đức Địa Tạng, bậc Đại Hùng, người cai quản chúng sinh dưới tầng địa ngục hay giáo chủ cõi Vô Minh. Một tay cầm chìa khóa canh cổng địa ngục và tay kia mang viên ngọc Như Ý chiếu ánh sáng xua tan bóng đêm.

Sắc là không, không tức sắc
Không là sắc, sắc tức không (Thái hậu Ỷ Lan)

Phật Giáo cũng như mọi tôn giáo khác đều mở rộng vòng tay độ lượng để đưa con người ra khỏi chốn vô minh. Dẫu vậy, cái gì hưng thịnh tất có suy vong. Mọi thứ sẽ về lại với hư không. Cuộc đời chẳng qua là sắc sắc không không. Phật Giáo Ấn Độ đã lụi tàn và trở về nơi mà nó đã từng khởi đầu. Phật Giáo Việt Nam cũng đang trên con đường mạt pháp khi ma quỷ trêu ghẹo thánh thần diễn ra khắp mọi nơi trên đất nước lầm than này.

Thế nên, phận làm người vẫn còn mãi u mê…

Hình 1: Hình tượng Đức Phật theo Tiểu Thừa, một đạo sư, một con người thật sự trong hình hài người Ấn Độ cổ đại. http://www.artelino.eu/en/articles/buddhism/199-types-of-buddhism.html

Hình 2: Hình tượng Đức Phật theo Đại Thừa, không phải là một con người cụ thể mà chỉ là biểu tượng cho trí huệ bát nhã, thoát vòng sinh tử, trường tồn cùng cõi Niết Bàn. Thông thường được khắc họa với đôi mắt mang tính từ bi và miệng mang tính hỉ xả. http://www.sutrasmantras.info/

Hình 3: Hình tượng Đức Phật theo Kim Cương Thừa với các nét vẽ siêu nhiên hay điển tích ẩn dụ trong bức khắc họa và thông thường Đức Phật có vầng hào quang. http://www.buddha-statues.co.uk/about-buddha-statues/vajrayana-buddhism/

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NHỮNG CON ĐƯỜNG THỦ ĐỨC XƯA

1,618: CON SỐ HUYỀN DIỆU

27/01 – NGÀY GIỖ PHẠM DUY

THỦ ĐỨC VÀ TRƯỜNG SƯ PHẠM KỸ THUẬT - NHỮNG NGÀY XƯA

MỘT THOÁNG NHA TRANG

CON NGƯỜI SINH RA ĐỂ SỐNG – CHỨ KHÔNG PHẢI CHUẨN BỊ SỐNG

NẮNG THÁNG TƯ

SÀI GÒN – KHI CHIỀU ĐÃ TẮT MÀ ĐÊM CHƯA VỀ

TÙY BÚT BÊN CHÙA THIÊN MỤ

DÁNG CAO NGUYÊN