CÂU CHUYỆN KHOA HỌC NHÂN LỄ VESAK 2563 PHẬT LỊCH VÀ LẦN THỨ 2643 ĐỨC PHẬT ĐẢN SINH
Một ngày nào đó, một đàn kiến, sinh sống giữa khu rừng rậm nhiệt đới, bỗng trở nên thông minh, băn khoăn về phận mình và quyết tìm hiểu thế giới.
Nhưng than ôi! Cả đời nó và nhiều thế hệ sau vẫn không thể vượt qua được khu rừng nhỏ bé. Đàn kiến bèn leo lên một cây thật cao, chế thêm “kính thiên văn” để có thể nhìn thật xa. Trước mắt nó, thế giới hiện ra vô cùng kỳ vĩ. Không chỉ là lá với cây và các loài rắn rết mà còn là thảo nguyên, sông suối, núi đồi và các loài vật to lớn khác như nai, voi, sư tử,…
Vũ trụ của đàn kiến thật là bao la, một hình tròn phẳng rộng lớn, được giới hạn bởi đường chân trời. Đàn kiến bỗng nhận thấy mình đang ở ngay trung tâm vũ trụ, một cách chính danh và duy nhất. Vậy ắt hẳn là Thượng Đế đã tạo ra vũ trụ và tạo ra thêm đàn kiến đặt ngay tại trung tâm để cai quản vũ trụ. Khi di chuyển đến bất kỳ ngọn cây nào khác, với các phép đo đạc thật chính xác, trung tâm vũ trụ luôn luôn ở ngay dưới chân đàn kiến ấy.
Loài người cũng đã từng cảm nhận vũ trụ của mình y như những con kiến. Quả Đất này đã từng là trung tâm vũ trụ từ khi con người chỉ mới bắt đầu ý thức về thế giới. Đến khi có học thuyết Big Bang, vào đầu thế kỷ XX, thêm một lần nữa, Quả Đất lại đóng vai trò trung tâm của một vũ trụ đang giãn nở. Thế nhưng, chỉ ngay sau đó, người ta nhận ra rằng vũ trụ không có tâm. Nói cách khác, cũng giống như những con kiến, dù đứng ở bất kỳ nơi đâu, vũ trụ cũng để lại một cảm giác vô cùng tuyệt vời cho tất cả mọi người. Bất kỳ ai cũng cảm thấy chỉ có duy nhất chính mình đang ở ngay tâm của vũ trụ. Duy nhất nơi mình đang đứng là “hiện tại”. Mọi hình ảnh chung quanh đều thuộc về “quá khứ” vì thông tin cần thời gian để truyền đến.
Trở lại với những con kiến. Các kiến “bác học” thích tranh luận với nhau mọi thứ trong cái vũ trụ của nó. Chẳng hạn, nước sông sẽ trôi về đâu, gió thổi về đâu,… Một nghiệp lực được nảy sinh hay có sự điều khiển từ một bàn tay vô hình? Chúng không bao giờ biết được bên ngoài đường chân trời (bên ngoài vũ trụ của nó) là gì vì không có bất kỳ tín hiệu nào có thể gởi đến với chúng. Thế mà, các “bác học” kiến tìm mọi cách để mô tả cái thế giới phía bên ngoài đó.
Ai đó nghe được những mẩu tranh luận của kiến, chắc chắn là, phải phì cười vì sự ngô nghê. Kiến đâu biết rằng chỉ một vùng biển nho nhỏ thôi là đã rộng hơn cái vũ trụ của nó gấp nhiều lần. Kiến làm sao biết được bên ngoài thế giới của nó tuyết có thể rơi, sông có thể đóng băng, cả gấu bắc cực lẫn chim cánh cụt nam cực,…Và hơn nữa, phía bên ngoài đó cũng có những con kiến giống hệt như chúng.
Loài người đứng trước vũ trụ, chắc chắn là, nhỏ nhoi hơn nhiều tỷ tỷ lần so với con kiến trên đường tìm hiểu Quả Đất. Vậy thì cái vũ trụ mà con người đang tìm kiếm có lệch lạc giống như vũ trụ của kiến không? Đây đó trong kinh sách Phật Giáo, cái mà chúng ta đang nhìn thấy chỉ là ảo ảnh vô thường trong vô lượng biến hóa hình tướng của tạo hóa.
Dưới chân dãy Himalaya vút cao tận trời, từ hơn 2600 năm trước, ánh nắng chói chang như lửa đổ cùng sự bất bình đẳng các đẳng cấp trong xã hội đã gieo rắc đau thương tột cùng khắp miền đông bắc Ấn Độ. Chỉ trừ duy nhất sông Hằng, như một kiệt tác kiều diễm mà thiên nhiên ban tặng cho nhân loại. Ba thế giới hoàn toàn tương phản nhau dọc theo chiều dài con sông. Thượng nguồn, cùng dãy Himalaya hùng vĩ, được ví như ngón chân của thần Vishnu từ trời cao thò xuống, là thế giới của các thánh thần. Miền trung du hiện thân cho cõi nhân gian, thanh tịnh và u ẩn theo cảnh vô thường của kiếp con người. Hạ lưu và cửa sông lại hiện ra như thế giới của ác quỷ với những đợt sóng và xoáy nước cuồn cuộn.
Trong cảnh vừa bi thương vừa quyến rũ như vậy, Phật Giáo đã ra đời. Sau những ngày thiền định dưới gốc cây Bồ Đề (Bodh-Gaya), Đức Phật đã tìm được con đường dẫn đến giải thoát.
Phật Giáo không tham vọng giải thích thế giới mà mục đích của nó chỉ là giải thoát mọi đau khổ mà Đức Phật chỉ là người dẫn đường soi sáng. Một vị Sa Môn đã từng nói với Đức Phật: “Giáo pháp của Ngài thật vi diệu nhưng nếu Ngài không nói cho tôi biết là thời gian có vĩnh cửu không, không gian có vô tận không thì tôi không thể tu tập theo pháp của Ngài”. Và Đức Phật trả lời, đại ý thế này: “Pháp của ta chỉ là xoa dịu nỗi đau của vết thương”. Thế nhưng, “xoa dịu vết thương như thế nào và bằng cách nào” mà không có sự chi phối của thế giới siêu nhiên (như là Thượng Đế hay thánh thần) đã đưa giáo pháp Phật Giáo đạt đến tầm cao tư tưởng trong cách nhận thức thế giới và khiến Phật Giáo gần gũi với khoa học vật lý trong cách giải thích các hiện tượng.
400 năm trước, Galileo, từ thế giới duy lý phương tây, tìm ra một phương pháp quan trọng để nhận thức tự nhiên. Đó là phương pháp thực nghiệm. Bằng quan sát và thực nghiệm, người ta mới có thể tìm được quy luật của tạo hóa. Khoa học dường như không thể phát triển được trước những năm 1600 vì chưa có được một phương pháp tốt. Thế nhưng, 2600 năm trước, từ nền văn minh phương đông, thiền định là một phương tiện quan trọng để tìm đến giác ngộ. Giác ngộ lại được sinh ra từ tâm nên chỉ có chính mình tìm kiếm kinh nghiệm tu tập cho chính mình.
Thiền định và thực nghiệm là tương đương nhau. Chúng chỉ là hai phương tiện khác nhau, từ hai nền văn minh khác nhau, nhưng có cùng chung một mục đích. Chúng là hai con đường cùng dẫn đến một chân lý duy nhất.
Trong giáo pháp Phật Giáo không có Thượng Đế. Thế nên, chỉ với “nỗi đau khổ bắt đầu từ đâu” cũng đã làm xuất hiện hàng vạn bộ kinh với những tư tưởng thâm thúy về “duyên khởi”. Nó cũng giống như sự hình thành, tồn tại và biến hoại của thế giới vật chất trong khoa học. Mọi thứ đều dẫn về với cái “Không” cũng như vũ trụ này xuất phát từ “Không” để rồi tạo ra Big Bang. Tuy nhiên, “cái Không từ đâu đến?” lại có thể dẫn đến một bàn tay của Chúa! Thế nên, cái hiểu biết của nhân loại cho tới ngày nay, cả từ khoa học đến triết học, cũng chỉ giống như con kiến đang tìm hiểu về cái vũ trụ của nó, nghĩa là vẫn loay hoay trong ảo ảnh.
Phật Giáo là một con đường tu tập để dẫn đến cõi Niết Bàn thanh tịnh, không sanh không diệt. Kiếp người là một cảnh giới trong mối nhân duyên từ vô lượng tiền kiếp được tái sinh. Phật Giáo làm cho người ta nhận ra cái vô thường, tạo ra nghị lực để có thể vượt qua mọi đau khổ, hướng đến tâm bình an trong cuộc sống từ bi hỉ xả.
Mặc dù, không tham vọng giải thích thế giới nhưng Phật Giáo đã mang đến cho thế giới vô vàn vẻ đẹp. Từ nhân cách, giá trị con người, sự giải thoát khổ đau cho đến những hệ thống tư tưởng khoa học tuyệt vời. Thế nên, Einstein đã từng mơ ước, một ngày nào đó, nhân loại đạt đến một cái gì đó tương tự như một tôn giáo mới. Tôn giáo mới đó phải vượt qua mọi thần linh, mọi giáo điều. Tôn giáo ấy phải dựa trên nền tảng đạo đức và bao quát được các hiện tượng tự nhiên lẫn siêu nhiên. Và ông đã nói thêm: “Phật Giáo đáp ứng được tất cả các điều đó”.
Ảnh: Gốc cây Bồ Đề - https://www.thebuddhapilgrimage.co.in/bodhgaya-tour-packages.html
Nhưng than ôi! Cả đời nó và nhiều thế hệ sau vẫn không thể vượt qua được khu rừng nhỏ bé. Đàn kiến bèn leo lên một cây thật cao, chế thêm “kính thiên văn” để có thể nhìn thật xa. Trước mắt nó, thế giới hiện ra vô cùng kỳ vĩ. Không chỉ là lá với cây và các loài rắn rết mà còn là thảo nguyên, sông suối, núi đồi và các loài vật to lớn khác như nai, voi, sư tử,…
Vũ trụ của đàn kiến thật là bao la, một hình tròn phẳng rộng lớn, được giới hạn bởi đường chân trời. Đàn kiến bỗng nhận thấy mình đang ở ngay trung tâm vũ trụ, một cách chính danh và duy nhất. Vậy ắt hẳn là Thượng Đế đã tạo ra vũ trụ và tạo ra thêm đàn kiến đặt ngay tại trung tâm để cai quản vũ trụ. Khi di chuyển đến bất kỳ ngọn cây nào khác, với các phép đo đạc thật chính xác, trung tâm vũ trụ luôn luôn ở ngay dưới chân đàn kiến ấy.
Loài người cũng đã từng cảm nhận vũ trụ của mình y như những con kiến. Quả Đất này đã từng là trung tâm vũ trụ từ khi con người chỉ mới bắt đầu ý thức về thế giới. Đến khi có học thuyết Big Bang, vào đầu thế kỷ XX, thêm một lần nữa, Quả Đất lại đóng vai trò trung tâm của một vũ trụ đang giãn nở. Thế nhưng, chỉ ngay sau đó, người ta nhận ra rằng vũ trụ không có tâm. Nói cách khác, cũng giống như những con kiến, dù đứng ở bất kỳ nơi đâu, vũ trụ cũng để lại một cảm giác vô cùng tuyệt vời cho tất cả mọi người. Bất kỳ ai cũng cảm thấy chỉ có duy nhất chính mình đang ở ngay tâm của vũ trụ. Duy nhất nơi mình đang đứng là “hiện tại”. Mọi hình ảnh chung quanh đều thuộc về “quá khứ” vì thông tin cần thời gian để truyền đến.
Trở lại với những con kiến. Các kiến “bác học” thích tranh luận với nhau mọi thứ trong cái vũ trụ của nó. Chẳng hạn, nước sông sẽ trôi về đâu, gió thổi về đâu,… Một nghiệp lực được nảy sinh hay có sự điều khiển từ một bàn tay vô hình? Chúng không bao giờ biết được bên ngoài đường chân trời (bên ngoài vũ trụ của nó) là gì vì không có bất kỳ tín hiệu nào có thể gởi đến với chúng. Thế mà, các “bác học” kiến tìm mọi cách để mô tả cái thế giới phía bên ngoài đó.
Ai đó nghe được những mẩu tranh luận của kiến, chắc chắn là, phải phì cười vì sự ngô nghê. Kiến đâu biết rằng chỉ một vùng biển nho nhỏ thôi là đã rộng hơn cái vũ trụ của nó gấp nhiều lần. Kiến làm sao biết được bên ngoài thế giới của nó tuyết có thể rơi, sông có thể đóng băng, cả gấu bắc cực lẫn chim cánh cụt nam cực,…Và hơn nữa, phía bên ngoài đó cũng có những con kiến giống hệt như chúng.
Loài người đứng trước vũ trụ, chắc chắn là, nhỏ nhoi hơn nhiều tỷ tỷ lần so với con kiến trên đường tìm hiểu Quả Đất. Vậy thì cái vũ trụ mà con người đang tìm kiếm có lệch lạc giống như vũ trụ của kiến không? Đây đó trong kinh sách Phật Giáo, cái mà chúng ta đang nhìn thấy chỉ là ảo ảnh vô thường trong vô lượng biến hóa hình tướng của tạo hóa.
Dưới chân dãy Himalaya vút cao tận trời, từ hơn 2600 năm trước, ánh nắng chói chang như lửa đổ cùng sự bất bình đẳng các đẳng cấp trong xã hội đã gieo rắc đau thương tột cùng khắp miền đông bắc Ấn Độ. Chỉ trừ duy nhất sông Hằng, như một kiệt tác kiều diễm mà thiên nhiên ban tặng cho nhân loại. Ba thế giới hoàn toàn tương phản nhau dọc theo chiều dài con sông. Thượng nguồn, cùng dãy Himalaya hùng vĩ, được ví như ngón chân của thần Vishnu từ trời cao thò xuống, là thế giới của các thánh thần. Miền trung du hiện thân cho cõi nhân gian, thanh tịnh và u ẩn theo cảnh vô thường của kiếp con người. Hạ lưu và cửa sông lại hiện ra như thế giới của ác quỷ với những đợt sóng và xoáy nước cuồn cuộn.
Trong cảnh vừa bi thương vừa quyến rũ như vậy, Phật Giáo đã ra đời. Sau những ngày thiền định dưới gốc cây Bồ Đề (Bodh-Gaya), Đức Phật đã tìm được con đường dẫn đến giải thoát.
Phật Giáo không tham vọng giải thích thế giới mà mục đích của nó chỉ là giải thoát mọi đau khổ mà Đức Phật chỉ là người dẫn đường soi sáng. Một vị Sa Môn đã từng nói với Đức Phật: “Giáo pháp của Ngài thật vi diệu nhưng nếu Ngài không nói cho tôi biết là thời gian có vĩnh cửu không, không gian có vô tận không thì tôi không thể tu tập theo pháp của Ngài”. Và Đức Phật trả lời, đại ý thế này: “Pháp của ta chỉ là xoa dịu nỗi đau của vết thương”. Thế nhưng, “xoa dịu vết thương như thế nào và bằng cách nào” mà không có sự chi phối của thế giới siêu nhiên (như là Thượng Đế hay thánh thần) đã đưa giáo pháp Phật Giáo đạt đến tầm cao tư tưởng trong cách nhận thức thế giới và khiến Phật Giáo gần gũi với khoa học vật lý trong cách giải thích các hiện tượng.
400 năm trước, Galileo, từ thế giới duy lý phương tây, tìm ra một phương pháp quan trọng để nhận thức tự nhiên. Đó là phương pháp thực nghiệm. Bằng quan sát và thực nghiệm, người ta mới có thể tìm được quy luật của tạo hóa. Khoa học dường như không thể phát triển được trước những năm 1600 vì chưa có được một phương pháp tốt. Thế nhưng, 2600 năm trước, từ nền văn minh phương đông, thiền định là một phương tiện quan trọng để tìm đến giác ngộ. Giác ngộ lại được sinh ra từ tâm nên chỉ có chính mình tìm kiếm kinh nghiệm tu tập cho chính mình.
Thiền định và thực nghiệm là tương đương nhau. Chúng chỉ là hai phương tiện khác nhau, từ hai nền văn minh khác nhau, nhưng có cùng chung một mục đích. Chúng là hai con đường cùng dẫn đến một chân lý duy nhất.
Trong giáo pháp Phật Giáo không có Thượng Đế. Thế nên, chỉ với “nỗi đau khổ bắt đầu từ đâu” cũng đã làm xuất hiện hàng vạn bộ kinh với những tư tưởng thâm thúy về “duyên khởi”. Nó cũng giống như sự hình thành, tồn tại và biến hoại của thế giới vật chất trong khoa học. Mọi thứ đều dẫn về với cái “Không” cũng như vũ trụ này xuất phát từ “Không” để rồi tạo ra Big Bang. Tuy nhiên, “cái Không từ đâu đến?” lại có thể dẫn đến một bàn tay của Chúa! Thế nên, cái hiểu biết của nhân loại cho tới ngày nay, cả từ khoa học đến triết học, cũng chỉ giống như con kiến đang tìm hiểu về cái vũ trụ của nó, nghĩa là vẫn loay hoay trong ảo ảnh.
Phật Giáo là một con đường tu tập để dẫn đến cõi Niết Bàn thanh tịnh, không sanh không diệt. Kiếp người là một cảnh giới trong mối nhân duyên từ vô lượng tiền kiếp được tái sinh. Phật Giáo làm cho người ta nhận ra cái vô thường, tạo ra nghị lực để có thể vượt qua mọi đau khổ, hướng đến tâm bình an trong cuộc sống từ bi hỉ xả.
Mặc dù, không tham vọng giải thích thế giới nhưng Phật Giáo đã mang đến cho thế giới vô vàn vẻ đẹp. Từ nhân cách, giá trị con người, sự giải thoát khổ đau cho đến những hệ thống tư tưởng khoa học tuyệt vời. Thế nên, Einstein đã từng mơ ước, một ngày nào đó, nhân loại đạt đến một cái gì đó tương tự như một tôn giáo mới. Tôn giáo mới đó phải vượt qua mọi thần linh, mọi giáo điều. Tôn giáo ấy phải dựa trên nền tảng đạo đức và bao quát được các hiện tượng tự nhiên lẫn siêu nhiên. Và ông đã nói thêm: “Phật Giáo đáp ứng được tất cả các điều đó”.
Ảnh: Gốc cây Bồ Đề - https://www.thebuddhapilgrimage.co.in/bodhgaya-tour-packages.html
Nhận xét
Đăng nhận xét