RẰM THÁNG TƯ - NGÀY PHẬT ĐẢN SINH
Chỉ có ánh trăng tròn tuyệt đẹp vắt ngang qua bầu trời đêm như chào đón sự ra đời của một con người vĩ đại nhất mọi thời đại
Đông bắc Ấn Độ là một miền đất vô cùng kỳ vĩ về địa lý cũng như lịch sử của nó. Nơi này ánh sáng Mặt Trời mùa hè rực cháy như thiêu đốt mọi thứ, mỗi năm trung bình vài trăm người chết vì nóng. Rừng rậm thì đầy thú dữ chỉ chực chờ ăn thịt người. Dãy Himalaya hùng vĩ, kiêu ngạo vút cao lên tận trời và từ đây một ngón chân của thần Vishnu (thần Hộ Vệ) thò ra làm phát sinh nguồn nước sông Hằng (Ganga).
Sông Hằng, một kiệt tác của vẻ đẹp kiềm diễm trong bức tranh ảm đạm miền đông bắc Ấn Độ, dài khoảng 2.500km được xem như Ba Thế Giới (Tri Pathaya – phát âm tựa như Three Places trong tiếng Anh) cùng tồn tại trên dòng sông. Thượng nguồn, dãy Himalaya, là thế giới của Trời và các vị thần. Miền trung du con sông, với nét đẹp vô cùng quyến rũ, là thế giới của cõi nhân gian đầy thơ mộng. Vùng hạ lưu và cửa sông, bề rộng khoảng chừng 30km – 50km, lại hiện ra như thế giới của ác quỷ với những đợt sóng cao ngất và những xoáy nước cuồn cuộn khổng lồ như muốn nhấn chìm mọi sự sống vào lòng địa ngục.
Khoảng 8.000 năm trước, những người Aryan, có nguồn gốc từ châu Âu, đến định cư tại miền đông bắc Ấn Độ và đẩy người Dravidian, gốc Nam Á (da sậm hơn), xuống phía nam lục địa. Từ khung cảnh khắc nghiệt bởi cái nóng, những người Aryan tạo nên thần thoại gồm các vị thần cũng gieo rắc sự hủy diệt (thần Shiva), sự sáng thế (Brahma) hay sự cứu rỗi (thần Vishnu) tương tự cảnh chết chóc của miền này. Dần dần, thần thoại trở thành kinh Vệ Đà (Veda) và qua khoảng 2.000 năm phát triển, kinh Vệ Đà trở thành bộ thánh kinh của một tôn giáo mới, đạo Bà La Môn (Brahmana).
Đạo Bà La Môn được xem như cội nguồn của sự bất bình đẳng xã hội. Bốn giai cấp chính phân chia các hạng người. Ngoài ra, còn một thành phần nữa, người Paria, dường như không phải loài người, bị vứt bỏ và không được phép đạp lên cái bóng của người thuộc các giai cấp trên.
Trong cảnh sầu thẳm như vậy cùng cái nóng thiêu đốt của mùa hè 2.640 năm trước (năm 624 TCN) như gieo rắc sự đau khổ tột cùng lên mọi chúng sinh, chỉ có ánh trăng tròn tuyệt đẹp vắt ngang qua bầu trời đêm như chào đón sự ra đời của một con người vĩ đại nhất mọi thời đại, tại khu vườn Lâm Tì Ni (Lumbini), kinh thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) thuộc vương quốc Sakya (Thích Ca), nay thuộc nước Nepal. Đó là thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm (Siddhartha Gautama).
Ngài đã trải qua hai cuộc sống tương phản nhau trong xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ. Đó là cuộc sống xa hoa trong hoàng gia, trong 19 năm, và cuộc sống tu tập khổ hạnh nơi rừng thiêng nước độc, trong 16 năm, tương tự các vị sa môn khác tìm đến sự giải thoát. Cuối cùng, dưới gốc cây Bồ Đề tại Bodh Gaya sau 49 ngày thiền định, Ngài tìm được con đường Trung Đạo để đạt đến Giác Ngộ.
Ngài đã bắt đầu những bài giảng đầu tiên, gọi là Chuyển Pháp Luân, tại vườn Lộc Uyển, kinh thành Sarnath với Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, Vô ngã, Luân hồi, Duyên khởi.
Năm 544 TCN, sau gần 50 năm hoằng dương giáo pháp đến mọi chúng sinh, Ngài nhập cõi Niết Bàn, thọ 80 tuổi, tại Câu Thi Na (Kushinagar). Và năm Phật nhập diệt này được tính là năm đầu tiên của Phật lịch nên năm 2016 được xem là năm 2.560 của Phật lịch.
Ngay trước khi ra đi, Ngài có lời dạy cuối cùng đến mọi chúng sinh: “Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường và biến hoại, hãy cố gắng tự tu tập”.
Hình:
1. Lâm Tì Ni (Lumbini) – nơi Phật ra đời
2. Bodh Gaya – nơi Phật đạt Giác Ngộ
3. Vườn Lộc Quyển (Sarnath) – nơi Phật chuyển pháp luân
4. Câu Thi Na (Kushinagar) – nơi Phật nhập diệt
Và sông Hằng bên thành phố Varanasi (
https://www.ivivu.com/blog/2016/01/varanasi-thanh-pho-bi-an-ben-song-hang/)
Nhận xét
Đăng nhận xét