ĐƯỜNG LÊN THIÊN MỤ


Vào năm 1601, chúa Tiên cho dựng lên ngay trên đồi Hà Khê một ngôi chùa, lấy tên là chùa Thiên Mụ như là sự tưởng nhớ “bà trời” trong câu chuyện đã kể.

Từ Đại Nội, trung tâm thành phố Huế, ngược dòng Hương Giang vài km, con sông dẫn đến một ngọn đồi tuyệt đẹp có tên Hà Khê. Nơi đây, đất trời và sông nước như đan quyện lấy nhau, nơi âm dương giao hoà tạo thành vùng đất địa linh. Từ trên ngọn đồi ấy mọc lên một ngôi chùa soi bóng bên sông, phảng phất nét buồn dìu dịu cõi nhân gian. Đó là chùa Thiên Mụ.

Từ thời xa xưa lắm, những người lái đò ngược xuôi sông Hương về đêm, khi ngang qua đồi Hà Khê, thỉnh thoảng, nhìn thấy bóng một bà già mờ mờ ảo ảo có bộ tóc trắng xóa, áo đỏ tía, quần xanh lá mạ nhẹ nhàng lướt qua những hàng cây cao vút trên ngọn đồi. Bà có giọng nói to và vừa đủ ấm để làm vang động cả vùng trời: “Sau này, ai xây cho tại đây một ngôi chùa thì người đó sẽ làm chủ giang san!”.

Năm 1527, Mạc Đăng Dung chiếm Thăng Long và lập Bắc Triều. Họ Lê không khuất phục, kéo về Thanh Hóa lập Nam Triều, mở đầu thời kỳ nhà Lê trung hưng (1533 -1789) với vị vua đầu tiên là Lê Trang Tôn và được Nguyễn Kim (1468 – 1545), một danh tướng, giúp sức.

Ngay sau khi Nguyễn Kim đột ngột qua đời, người con rể, Trịnh Kiểm (1503 – 1570), chiếm lấy toàn bộ quyền lực. Để loại trừ âm mưu tạo phản, Trịnh Kiểm giết chết anh vợ Nguyễn Uông. Sau đó, lo sợ đến lượt mình, người em vợ là Nguyễn Hoàng (1525 – 1613) lui về phía nam của Nam triều để trấn giữ Thuận Hoá (nam Quảng Trị và Thừa Thiên Huế ngày nay).

Nguyễn Hoàng trở thành vị chúa đầu tiên của xứ Đàng Trong với tên gọi chúa Tiên. Khi dọc xuôi miền đất Thuận Hóa, chúa Tiên nghe được câu chuyện trên và nhận thấy đồi Hà Khê có dáng dấp đặc biệt. Thế là, vào năm 1601, chúa Tiên cho dựng lên ngay trên đồi này một ngôi chùa, lấy tên là chùa Thiên Mụ như là sự tưởng nhớ “bà trời” trong câu chuyện đã kể. Và đúng như lời truyền, họ Nguyễn đã làm chủ giang san sau rất nhiều biến động và tang thương của lịch sử, 200 năm sau, năm 1802.

Từ đó về sau, chùa Thiên Mụ luôn được các vua và chúa Nguyễn tôn tạo và xây dựng thêm. Năm 1710, chúa Minh (Quốc chúa) Nguyễn Phúc Chu (1691 – 1725) cho đúc Đại hồng chung, một chuông đồng lớn dùng để đánh tiếng chuông vang xa. Năm Gia Long thứ XIV (1815), vua Gia Long cho đúc thêm cái chuông thứ hai đảm nhiệm việc đánh chuông thay cho cái chuông thứ nhất đến tận ngày hôm nay.

Năm Thiệu Trị thứ IV (1844), tháp Phước Duyên và đình Hương Nguyện được dựng lên. Tuy nhiên, đình Hương Nguyện đã bị cơn bão năm 1904 phá tan tành không còn lại vết tích gì. Đến hôm nay, tháp Phước Duyên, gồm 7 tầng cao 21m, như là một biểu tượng không thể thiếu của chùa Thiên Mụ. Một chút gì đó đượm buồn như những vần thơ được thả ngang sông pha lẫn vẻ sầu bi trần thế trong giáo lý Phật Giáo giữa cảnh đất trời thơ mộng và tĩnh lặng của đồi Hà Khê.

Vua Tự Đức không có con để nối dõi. Ông đã tưởng rằng chữ “Thiên” trong chữ Thiên Mụ đã phạm phải Trời vì bà già ngày xưa trong câu chuyện đã kể chỉ là người hay một cảnh giới nào đó chứ không phải Trời nên năm Tự Đức thứ XVI (1862), chùa lại có tên mới, Linh Mụ.

Mặc dù có tên là “Phước Duyên” nhưng không se duyên cho những đôi lứa yêu nhau đến chùa mong ước tơ hồng. Chuyện kể là ngày xưa, không biết tự lúc nào, có một đôi trai gái yêu nhau với mối tình vụng trộm. Chàng trai thì nghèo hèn và mồ côi, cô gái lại là con của một quan lại danh giá. Họ đến chùa Thiên Mụ và cầu xin trời đất cho được bên nhau suốt đời. Tuy nhiên, họ đã không đến được nhau vì gia đình và những định chế xã hội thời đó. Thế là đôi trai gái đứng trên đồi Hà Khê và cùng gieo mình xuống dòng Hương Giang.

Xác chàng trai bị cuốn ra cửa biển. Cô gái thì được cứu sống, dần dần quên hẵn mối tình xưa và sau đó có một cuộc sống vinh hoa với một người khác là quan lại dưới thời chúa Nguyễn. Vong hồn chàng trai tức giận, lởn vởn quanh chùa Thiên Mụ, nhất quyết không kết duyên cho bất cứ cặp đôi nào đến tháp Phước Duyên cầu mong như chàng đã từng làm xưa kia. Lời thề nguyền độc của vong hồn chàng trai vẫn còn được lưu truyền quanh chùa Thiên Mụ cho mọi cặp đôi đang yêu đến tận ngày hôm nay.

Mỗi ngày, tiếng chuông Thiên Mụ được vang lên hai lần. Lần đầu vào đầu canh một, lúc trời vừa bắt đầu tối và lần hai vào đầu canh năm, lúc trời gần sáng. 108 tiếng chuông được lan tỏa đều đặn, ngân vang lên trong màn đêm tĩnh mịch. Tiếng chuông vang xa, gởi vào hư không những nỗi khổ đau của kiếp làm người trong giáo lý Phật giáo.

Phật giáo là một con đường. Con đường trung đạo dẫn đến cõi Niết Bàn thanh tịnh, không sanh không diệt mà phương tiện của nó là sự Giác Ngộ được sinh ra từ tâm. Kiếp người chẳng qua là một cảnh giới trong vô lượng kiếp vô thường với mối nhân duyên sân si từ muôn ngàn kiếp trước được tái sinh. Phật giáo làm cho người ta nhận ra cái vô thường của cõi nhân gian, tạo ra nghị lực để người ta có thể vượt qua những đau khổ của kiếp người, hướng đến tâm bình an trong cuộc sống từ bi hỉ xả. Phật Giáo không phải để cầu xin hưởng phúc và chỉ nghiệp lực của mình mới có thể tạo nên được chính mình.

Hình: Chùa Thiên Mụ và dòng Hương Giang ngay tại đồi Hà Khê.



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NHỮNG CON ĐƯỜNG THỦ ĐỨC XƯA

1,618: CON SỐ HUYỀN DIỆU

27/01 – NGÀY GIỖ PHẠM DUY

THỦ ĐỨC VÀ TRƯỜNG SƯ PHẠM KỸ THUẬT - NHỮNG NGÀY XƯA

MỘT THOÁNG NHA TRANG

CON NGƯỜI SINH RA ĐỂ SỐNG – CHỨ KHÔNG PHẢI CHUẨN BỊ SỐNG

NẮNG THÁNG TƯ

SÀI GÒN – KHI CHIỀU ĐÃ TẮT MÀ ĐÊM CHƯA VỀ

TÙY BÚT BÊN CHÙA THIÊN MỤ

DÁNG CAO NGUYÊN